Hành vi phạm tội của các bị cáo về “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức” và “Giả mạo trong công tác” có tính chất nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự, trị an tại địa phương và xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính nhà nước nên cần phải xử lý các bị cáo trước pháp luật mới có tác dụng đấu tranh phòng chống tội phạm.
Theo hồ sơ vụ án, năm 2016 chị Nguyễn Thị Băng T sinh ngày 01/10/2000 có quan hệ tình cảm yêu đương và giao cấu với Trần Văn V, sinh năm 1995 dẫn đến chị T có thai. Ngày 06/4/2016 V đến nhà chị T tự nguyện viết cam kết sẽ có trách nhiệm với chị T và sẽ cưới chị T làm vợ. V biết chị T chưa đủ 16 tuổi không đăng ký kết hôn được nên V đã nảy sinh ý định sửa tuổi của chị T. V nói dối chị T đưa sổ hộ khẩu của gia đình chị T để làm sổ bảo hiểm y tế cho chị T. Chị T tin nên gặp mẹ là bà Nguyễn Thị H mượn sổ hộ khẩu đưa cho V.
Sau đó V đến nhờ bà Nguyễn Thị B, bà B lại nhờ Trần Văn S sửa tuổi cho chị T trong quyển Sổ hộ khẩu gia đình chị T. Vì nể nang, động cơ cá nhân, S là Phó trưởng Công an xã B.H được giao phụ trách lĩnh vực quản lý hành chính, là người có trách nhiệm lập hoặc cấp các giấy tờ, sổ sách, tài liệu liên quan đến hộ khẩu nên S đã đồng ý và dùng bút xóa, bút bi sửa ngày tháng năm sinh của chị T từ 01/10/2000 thành ngày 01/03/1998, sau đó lấy 01 quyền Sổ hộ khẩu mới viết lại nội dung như Sổ hộ khẩu cũ, viết xong S đưa sổ hộ khẩu mới cho bà B, bà B đưa cho V. Khi có Sổ hộ khẩu mới V cùng chị T đã sử dụng trái pháp luật 03 lần, cụ thể: Đi đăng ký kết hôn; làm thủ tục cấp căn cước công dân; làm thủ tục chuyển khẩu chị T sang Sổ hộ khẩu nhà V.
Ngày 03/12/2021 chị T có đơn gửi Cơ quan Điều tra Công an huyện B.X tố giác hành vi giao cấu của V với chị T. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
Vì các lẽ trên, ngày 15/3/2024 tại HĐXX Tòa án nhân dân huyện B.X đã tuyên phạt bị cáo Trần Văn V phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”. Trần Văn S phạm tội “Giả mạo trong công tác”. Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 341; điểm s, khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Trần Văn V 02 năm 03 tháng tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”. Tổng hợp với 02 năm 06 tháng tù của bản án số 10/2023/HSST ngày 14/02/2023 của Tòa án nhân dân huyện B.X buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 04 năm 09 tháng tù. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 284 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi năm 2009; điểm s, v khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Trần Văn S 03 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm. Đây là bài học thích đáng cho những ai coi thường pháp luật, xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính nhà nước được pháp luật bảo vệ.
Thu Hiền