Hành vi trộm cắp tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự và an toàn trong xã hội, làm quần chúng nhân dân hoang mang, lo sợ. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.
Theo hồ sơ vụ án, Nguyễn Văn M là công nhân làm việc tại xưởng 3 của Công ty TNHH in điện tử MD, địa chỉ: khu công nghiệp BT, huyện BX, tỉnh VP. Khoảng 07h45 ngày 27/9/2023, khi đến công ty làm việc M để bao thuốc lá ở khay hộp giấy tại bàn bảo vệ (Theo quy định của công ty, công nhân vào trong xưởng làm việc phải để điện thoại ở khay hộp giấy tại bàn bảo vệ hoặc để trong tủ đồ cá nhân của Công ty cấp cho công nhân bên ngoài xưởng 3). Khi M vào xưởng làm việc thì công ty phân công cho M tăng cường sang làm việc cho xưởng 1, nhưng do thấy công việc tại xưởng 1 vất vả nên M không làm nữa mà quay về xưởng 3 viết giấy xin nghỉ làm. Sau khi được nghỉ làm, M đi ra khỏi cửa từ đến bàn bảo vệ lấy bao thuốc lá của mình để ở khay hộp giấy thì thấy 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11Promax màu đen của anh Dương Trung H là Công nhân làm việc tại xưởng 3 của Công ty để ở trong khay, quan sát thấy nhân viên bảo vệ đang kiểm soát người ra vào xưởng 3, M liền lấy chiếc điện thoại của anh H để ở khay hộp giấy tại bàn bảo vệ cầm ở tay phải rồi đi ra lấy xe và điều khiển xe đi về nhà. Khi đi đến thị trấn G,X, huyện BX, tỉnh VP (M không nhớ địa điểm cụ thể) M dừng xe, lấy điện thoại vừa trộm cắp được, tháo sim của điện thoại vứt bỏ xuống bãi đất trống rồi tiếp tục điều khiển xe đi về. Trên đường về đến địa phận thôn HP, xã BB, huyện LT, tỉnh VP, M vào quán điện thoại KT Mobile do chị Đào Thị N là chủ và đặt vấn đề bán chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11Promax vừa trộm cắp được. Khi mua bán M nói dối chị N là điện thoại nhặt được đã lâu không dùng nên đi bán, chị N tin là thật đã đồng ý mua với giá 1.200.000đ, số tiền bán điện thoại M đã chi tiêu cá nhân hết.
Ngày 30/9/2023, chị Đào Thị N đã tự nguyện giao nộp điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11Promax màu đen để phục vụ công tác điều tra.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp anh Dương Trung H. Ngày 25/12/2023, Cơ quan CSĐT – Công an huyện BX đã trả lại cho anh H. Sau khi nhận lại tài sản anh H yêu cầu M phải bồi thường số tiền 4.000.000 đồng (bao gồm tiền làm lại sim, tiền thiệt hại do bị mất điện thoại), M đồng ý và đã bồi thường số tiền 4.000.000 đồng cho H. Sau khi nhận lại điện thoại và 4.000.000 đồng tiền bồi thường, H không có yêu cầu, đề nghị gì và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho M.
Đối với chị Đào Thị N chủ cửa hàng điện thoại KT Mobile là người đã mua điện thoại di động do M trộm cắp mà có. Khi mua điện thoại, chị N không biết là tài sản do M phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp. Đối với số tiền 1.200.000 đồng là tiền chị N đã trả cho M để mua điện thoại, quá trình điều tra, M đã trả lại cho chị N nên chị không có đề nghị gì.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn M thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như bản cáo trạng, không bào chữa và tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt. Vì các lẽ trên, ngày 20/3/2024 tại HĐXX Tòa án nhân dân huyện B.X đã tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015(sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt Nguyễn Văn M 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm 06 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Văn M cho Ủy ban nhân dân xã nơi cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Phan Linh